Người trẻ trưởng thành toàn diện và huấn luyện lương tâm: Đối thoại giữa Lương tâm và Huấn quyền

  • 10/05/2022
  • Người trẻ trưởng thành toàn diện và huấn luyện lương tâm: Đối thoại giữa Lương tâm và Huấn quyền

     

    NGƯỜI TRẺ TRƯỞNG THÀNH TOÀN DIỆN VÀ HUẤN LUYỆN LƯƠNG TÂM: ĐỐI THOẠI GIỮA LƯƠNG TÂM VÀ HUẤN QUYỀN

    BS Trần Như Ý- Lan, Dòng Đức Bà

    WHĐ (22.12.2020) – Hiện nay, vấn đề lương tâm là một chủ đề nóng. Lương tâm giữ một vị trí ưu tiên trong phân định và chọn lựa luân lý. Về cơ bản, lương tâm và Huấn quyền không đối kháng nhau vì cả hai cùng xuất phát từ Thiên Chúa, cùng tìm kiếm chân lý[1]. Thực tế, đôi khi cả hai dường như không chung tiếng nói. Trong Giáo hội vẫn có nhiều người nại đến tự do lương tâm cá nhân để không tuân phục giáo huấn Giáo hội về cấm ngừa thai nhân tạo, sống thử, phá thai, thụ thai nhân tạo, ly dị tái hôn, luyến ái đồng tính, chuyển giới, nghiên cứu tế bào gốc từ phôi người... Đây thật là một cơn bão xoáy về luân lý. Chúng ta được dạy rằng lương tâm có quyền tự do bất khả xâm phạm. Cùng lúc, chúng ta thường được dạy bảo các quy luật nhiều khi mang tính tuyệt đối đến mức chúng ta tự hỏi lương tâm đóng vai trò thế nào? Và, vài câu hỏi thực tế: chúng ta có hiểu đúng về lương tâm? Có lạm dụng tiếng nói lương tâm? Có hiểu đúng những gì Giáo hội dạy? Huấn quyền có dành chỗ đứng xứng đáng cho lương tâm trong đời sống?

    Chính vì thế việc huấn luyện lương tâm trở thành một điều thiết yếu đối với việc đào tạo người trẻ trưởng thành toàn diện, cách riêng người linh mục để hướng dẫn mục vụ sau này. Các vị mục tử có trách nhiệm đào tạo lương tâm Kitô giáo của người trẻ, biết nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa trong mọi cảnh huống của đời sống và biết đáp trả theo những đòi hỏi xác thực của niềm tin Kitô giáo và của đức ái. Trong năm mục vụ Giáo hội Việt Nam hướng đến người trẻ trưởng thành toàn diện, bài viết tập trung vào việc đối thoại giữa Huấn quyền và lương tâm.

    Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu bối cảnh trong đó Huấn quyền và lương tâm hoạt động và tương tác.

    I. CẤU TRÚC SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO (GLHTCG)

    Trong một bài trình bày bố cục của sách GLHTCG đăng trên tuần báo Osservatore Romano, ngày 06/01/1993, Đức giám mục Christoph von Schoenborn, thư ký ủy ban soạn thảo sách GLHTCG, lưu ý rằng bốn phần của sách nối kết với nhau thành một toàn thể, tựa như cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người. Một đàng là Thiên Chúa đến với con người qua nhiệm cục cứu độ, qua việc tạo dựng, cứu độ và thánh hóa (Kinh Tin kính, phần thứ nhất); Người ban cho nhân loại ơn thánh (các bí tích, phần thứ hai) cũng như những điều cần thiết khác để ta có thể sống đẹp lòng Người (cầu nguyện, phần thứ bốn). Đàng khác, con đường dẫn con người đến cùng Thiên Chúa không phải chỉ giới hạn trong phần thứ ba (Mười Điều Răn), nhưng bao gồm toàn bộ cuốn sách bốn phần. Đức Cha Von Schoenborn nhận định rằng cấu trúc này dựa theo sách Tổng Luận Thần Học của thánh Tôma Aquinô.

    II. THẦN HỌC LUÂN LÝ THEO THÁNH TÔMA AQUINÔ

    Có thể tóm Thần học Luân lý (THLL) của thánh Tôma vào ba điểm[2]:

    1. Luân lý dựa trên các nhân đức: ba nhân đức đối thần: tin, cậy, mến; và bốn nhân đức trụ: khôn ngoan, can đảm, tiết độ, công bằng.

    Trước hết, điều trên có nghĩa là luân lý không phải chỉ gồm những điều tiêu cực ngăn cấm, nhưng còn gồm những điều tích cực, khuyến thiện. Hơn nữa, mỗi nhân đức được thánh Tôma gắn với một ơn thánh của Chúa Thánh Thần và một chân phúc của Bài Giảng Trên Núi, diễn tả rằng đời sống luân lý của Kitô hữu cần phải đạt đến sự trưởng thành siêu nhiên, khi con người biết để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn sống theo tinh thần mà Đức Kitô đã đề ra trong Bài Giảng Trên Núi.

    Khi đặt đức tin đứng đầu trong các nhân đức, Thánh Tôma cho thấy rằng luân lý Kitô giáo có đặc nét riêng so với các nền luân lý khác bởi vì nó phản ánh một thực tại mới về con người, nhờ đức tin chúng ta biết được qua Thiên Chúa mạc khải. Theo vị thánh, chân lý nền tảng của luân lý là con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Điều đó giả thiết rằng con người cần phải luôn chiêm ngắm Thiên Chúa để tìm ra mẫu mực mà cư xử cho “giống” Người; mặt khác, con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc và triển nở toàn vẹn khi được kết hợp với Đấng đã tạo dựng nên mình và đồng thời cũng là cứu cánh đời mình.

    2. Luân lý xây dựng trên hạnh phúc con người

    Ngay từ đầu của phần luân lý, Thánh Tôma bàn đến hạnh phúc của con người. Con người tự bản năng khao khát hạnh phúc, và tìm cách để đạt tới hạnh phúc ấy. Các hành vi luân lý như những phương thế để tìm về hạnh phúc: cái gì dẫn tới hạnh phúc là tốt, cái gì làm cho ta mất hạnh phúc là xấu. Hiểu như vậy, xác định điều đúng sai, thiện ác không xuất phát từ một mệnh lệnh bên ngoài, nhưng là nằm trong bản chất nội tại của con người, tùy theo nó giúp cho con người đạt được cứu cánh của đời người hay không.

    3. Vai trò của luật luân lý

    Thánh Tôma đặt câu hỏi và cũng chính ngài trả lời. Làm sao biết được điều gì giúp con người đạt tới cứu cánh và điều nào thì không? Lý trí con người không luôn sáng suốt để nhận biết điều ấy! Chính vì vậy mà cần có người chỉ bảo cho nó: đó là luật. Luật như là phương thế mà Thiên Chúa dạy bảo con người. Khi trình bày về luật, Thánh Tôma đã theo sát diễn trình của mạc khải : trước tiên là mạc khải qua việc tạo dựng, nghĩa là Luật Tự Nhiên; kế đó là Luật Cũ (luật Môsê) và tiếp theo là Luật Mới (Luật Tin Mừng). Luật Mới hệ tại chính Chúa Thánh Thần được ban cho chúng ta. Luật Mới không viết trên bia đá, nhưng ghi khắc trong tâm khảm con người.

    Luật Mới chính là điểm đặc trưng của luân lý Kitô giáo: Kitô hữu phải sống theo Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho ta nhờ công cuộc cứu độ của Đức Kitô, mà ta lãnh nhận qua đức tin và các bí tích. Đặc trưng của Luật Mới là không những Chúa Kitô dạy bảo cho ta con đường phải đi, mà chính Người là Đường, và Người còn ban cho ta ơn thánh để ta có thể hoàn tất cuộc hành trình trần thế, để trổ sinh hoa trái của Thánh Thần và các chân phúc nữa. Luân lý Kitô giáo không chỉ gồm luật lệ, mà trước hết chất chứa nguồn lực năng động thúc đẩy con người đi tìm những gì tuyệt hảo nhất để biểu lộ sức sống mới của Chúa Thánh Thần, của đức ái.

    Như thế, THLL Kitô giáo theo cái nhìn của Thánh Tôma được trình bày gắn liền với lịch sử mạc khải, với Thiên Chúa, đồng thời hòa hợp với những khuynh hướng tự nhiên của con người như mong muốn hạnh phúc, muốn sống, muốn biết chân lý, muốn tương quan với tha nhân.

    III. CÁC MỐI QUAN TÂM CỦA THẦN HỌC LUÂN LÝ HIỆN NAY[3]

    THLL quan tâm đến mạc khải của Thiên Chúa về tình yêu Thiên Chúa tỏ lộ trong Đức Giêsu, và qua Chúa Thánh Thần, như lời mời gọi sự đáp trả của chúng ta. THLL nhìn sự đáp trả của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa về tình yêu dâng hiến như là chính tâm điểm của đời sống luân lý.

    THLL còn muốn tìm hiểu về phương thức mà người tín hữu đáp trả lại sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa, qua đời sống đức tin và luân lý của mình. Do đó, THLL chú tâm vào việc thực hành đức tin Công Giáo vào sự hình thành thể loại người mà Kitô hữu phải trở thành (‘đạo đức của hữu thể’, the ethics of being, hay ‘đạo đức về tính cách’, characters ethics); và thể loại hành vi mà chúng ta phải thi hành (‘đạo đức về hành xử, the ethics of doing). Cả hữu thể và hành xử, hay tính cách và hành vi, tạo nên mối liên kết phụ thuộc và tác động lẫn nhau mà THLL phải luôn xem xét cùng lúc.

    Đạo đức về hữu thể: Luân lý quan tâm về nội tâm con người, hay là tính cách nhân vị. Nói cách khác, “chúng ta là ai” là điều có ý nghĩa thiết thân về mặt luân lý. Vì lý do này, THLL phải chú ý đến đạo đức của hữu thể, vốn tập trung vào những gì đang xảy ra cho con người thực hiện hành vi. “Đạo đức của hữu thể” trong một bối cảnh Kitô giáo sẽ hỏi “tôi phải trở thành thể loại người nào bởi vì tôi tin vào Đức Kitô?”

    Đạo đức về hành xử: Tuy nhiên, nội tâm, cũng như ý định tốt, tầm nhìn, cũng chưa đủ cho luân lý. Nội tâm biểu đạt qua hành vi. Các hành vi đúng đắn xuất phát từ con người tốt lành, “nhìn quả biết cây”. “Đạo đức của hữu thể” chú ý vào con người tốt; “đạo đức về hành xử” chú ý vào hành vi đúng đắn. Trong bối cảnh Kitô giáo, nó hỏi “kiểu loại hành động nào tôi phải thực hiện bởi vì tôi tin vào Đức Kitô?” Có thể minh họa điều này bằng câu chuyện người Samari nhân hậu, kết thúc bằng lời dạy của Đức Kitô: Hãy đi và làm như vậy!

    Bước đầu đời sống luân lý, hành vi được hướng dẫn bởi luật lệ. Nhưng nếu chỉ tập trung vào hành vi và luật lệ thôi thì chưa đủ cho sự hiểu biết về phạm vi hoạt động của luân lý. Nếu quá tập trung vào các hành vi, chúng ta có nguy cơ nhìn chúng như là những gì ở bên ngoài chúng ta và như là có một thực tại riêng của các hành vi đó. Hành vi diễn tả con người. Sự tốt lành luân lý là phẩm chất của con người, được cấu thành không chỉ do bởi các hành vi tuân giữ lề luật mà còn và quan trọng không kém, bởi sự vun đắp các nhân đức, thái độ sống và tầm nhìn. Hơn nữa, nếu quá chú ý vào luật lệ, chúng ta đánh mất cái nhìn về đời sống luân lý Kitô hữu trước hết là đáp trả lời mời gọi bước theo Đức Kitô, sống theo Chúa Thánh Thần, trở thành những con người biết yêu thương đúng đắn.

    Lưu tâm của đạo đức về hành xử là thực hiện quyết định để giải quyết các xung đột về các giá trị luân lý để chúng ta có thể đạt đến hành vi đúng. Từ quan điểm này, suy tư THLL không chỉ về trách nhiệm và bổn phận của người làm hành động mà còn về hoàn cảnh tạo nên các tình huống luân lý. Những điều này được xem xét dưới ánh sáng của các quy phạm hay nguyên tắc luân lý. Như thế, đạo đức về hành xử lưu tâm đến Luật Thiên Chúa, giáo luật và dân luật nói chung.

    Tóm lại, về cơ bản, THLL quan tâm đến đời sống nội tâm con người, tương quan con người với Thiên Chúa, và cách thức con người thể hiện đức tin trong các mối tương quan với chính mình, với tha nhân, với thế giới trong đó con người sống, bằng những tầm nhìn, nhân đức, thái độ, chọn lựa, hành vi cụ thể hằng ngày. Hiểu đúng lương tâm luân lý là nền tảng cho cách hiểu của chúng ta về luân lý và cách sống ở đời.

    IV. LƯƠNG TÂM

    1. Quan điểm Kinh Thánh về Lương Tâm[4]

    Lương tâm trong Cựu Ước

    Từ Syneidesis, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là lương tâm, xuất hiện một lần duy nhất trong sách Khôn ngoan (Kn 17, 10). Theo các nhà chú giải, đây là một câu văn chịu ảnh hưởng của văn hóa Hy Lạp: “Kẻ gian ác tự đưa ra bằng chứng để lên án chính mình là hèn hạ bị lương tâm dày vò, nó luôn cảm thấy mình khổ sở”.

    Người Do Thái nhìn kinh nghiệm về điều tốt và điều xấu theo một viễn tượng ngoại tại, khách quan, và đôi khi mang tính tập thể. Các truyền thống và những người lãnh đạo tôn giáo làm trung gian cho thánh ý Thiên Chúa. Tuy nhiên họ cũng có kinh nghiệm về tiếng nói của Thiên Chúa từ bên trong chính mình. Cách hiểu lương tâm mang tính nội tại như thế là một đóng góp lớn lao của các ngôn sứ trong dân Do Thái. Lương tâm là cái gì sâu kín nhất nơi con người, tại nơi đó họ được mời gọi trung thành với Thiên Chúa của Giao ước.

    Ở đây ta có thể nói nền tảng của Cựu Ước là Nhân học tôn giáo của người Do Thái. Trong bối cảnh giao ước, Thiên Chúa ngỏ lời với con người: “Vì LỜI ở rất gần ngươi, nơi miệng ngươi, nơi lòng ngươi để ngươi thi hành” (Đnl 30, 14). Ý nghĩa và giá trị tôn giáo trong cuộc sống của người Do Thái nằm ở chỗ trung thành với lời Chúa dạy. Muốn được như thế, con người phải biết chăm chú lắng nghe lời Chúa, trong đó họ tìm thấy sự khôn ngoan để phân biệt tốt xấu. Thế mà luật Chúa lại ở tận đáy lòng (Tv 40, 9) và cũng từ nơi đáy lòng mình, con người giữ trọn lời Chúa để khỏi lỗi phạm đến Người (Tv 119, 11). Sự hiện diện của lời Chúa là món quà và con người có tự do đón nhận hay từ chối. Theo lối nhìn này, sự phân biệt tốt xấu liên kết với lời Chúa, là Đấng mời gọi con người sống trung thành với Người.

    Đây là cuộc gặp gỡ giữa lời Chúa và sự đáp trả của con người. Giao ước, lời Chúa, con người lắng nghe và vâng phục, những điều này tạo thành một cái nền cho phép hiểu hiện tượng lương tâm trong Cựu Ước. Với bối cảnh hiện sinh như thế trong đó người Do Thái đặt mình trong mối tương quan giao ước giữa họ với Chúa, thì chuyện không thấy có từ ngữ lương tâm trong Cựu Ước không phải là một điều gì khiếm khuyết nghiêm trọng. Người Do Thái nhận thức mối tương quan đó như một giá trị sống còn cho đời sống tôn giáo của họ và thực trạng đặc biệt này đưa họ đến việc chấp nhận những đòi hỏi luân lý nghiêm túc, để rồi từ nơi sâu thẳm nhất trong con người mình, họ tự do thực hiện những đòi hỏi đó.

    Theo Cựu Ước, từ cõi lòng, nơi sâu thẳm nhất trong con người, qua Chúa Thánh Thần tác động, con người lãnh nhận một thiên hướng bên trong (inner disposition) và lời mời gọi tránh điều dữ, làm điều lành, để chân thành tìm kiếm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực thi thánh ý Người. Cõi lòng bị lung lay nếu ta không tuân theo tiếng nói nội tâm này.

    Người Do Thái cho rằng Chúa Thánh Thần có thể chạm đến và kêu gọi họ từ nơi cõi lòng. Tuy nhiên chính cõi lòng sẽ khen chê hành vi của ta: “Lòng tôi không xấu hổ thẹn thùng về bất cứ ngày nào trong đời tôi” (G 27, 6). Hoặc khi vua Đa-vít muốn chứng tỏ sức của mình và của dân Ít-ra-en bằng cách cho lệnh kiểm tra dân số thì “lòng ông bùi ngùi sau khi kiểm tra dân số” (2Sm 24, 10) vì đây là hành vi bị Thiên Chúa coi là không tin tưởng vào sự quan phòng và dẫn dắt của Người. Điều này có nghĩa là từ trong cõi lòng, người làm điều xấu biết rằng mình đã làm điều sai trái chống lại Chúa. Đây không phải là cái biết theo lý trí, nhưng chính là sự dằn vặt sâu xa nơi cõi lòng.

    Không chỉ làm công việc tố cáo tội ai sau khi người đó làm điều xấu mà thôi, nhưng cõi lòng còn có thể lắng nghe Chúa Thánh Thần, là Đấng soi sáng và hướng dẫn con người sống ngay chính. Nếu ai có làm điều gì xấu thì Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ chạy đến gặp gỡ Chúa (x. Is 65, 14). Từ trong đáy lòng được Chúa Thánh Thần tác động, tác giả Thánh Vịnh đã cầu nguyện: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy, xin đừng nỡ đuổi con không cho gần nhan thánh Chúa, đừng cất khỏi con Thần Khí thánh của Ngài” (Tv 50, 12-13). Như thế sự sám hối trong Cựu Ước thường bắt đầu với cõi lòng tan vỡ.

    Lối nhìn sâu sắc này về cõi lòng con người nơi đó họ được Thần Khí Chúa chạm đến và đánh động, vượt lên trên tính luân lý bề ngoài. Sứ điệp lớn lao được các vị ngôn sứ công bố đó là Thiên Chúa muốn viết lề luật của Người nơi cõi lòng là nơi sâu thẳm nhất nơi con người (x. Gr 31, 29-34; Ed 14, 1-3 và 36, 26). Dù cõi lòng con người có thể trở nên chai đá, nhưng sứ điệp của các ngôn sứ cho thấy Thiên Chúa có thể đổi mới ngay cả những cõi lòng chai đá nhất. Người ban cho họ sự nhạy cảm mới và giúp họ biết cởi mở cõi lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.

    Tóm lại, chính cõi lòng lắng nghe tiếng Chúa, hiện diện trước mặt Chúa và trở thành nơi cho lương tâm ngự trị. Nói cách khác, cõi lòng chính là lương tâm của con người.

    Lương tâm trong Tân Ước

    Tân Ước cũng không có từ chuyên biệt để chỉ lương tâm. Chúa Giê-su cũng lấy lại chủ đề cõi lòng làm tính nội giới và nguồn gốc cho giá trị luân lý nơi con người (x. Mt 5, 8; 5, 28; 6, 21; Mc 7,20; Lc 6,45). Việc nhận thức các giá trị tôn giáo và luân lý cũng như việc quyết định có thái độ luân lý và tôn giáo như thế nào đều nằm trong cõi lòng của ta (Ga 3, 19-21; 9, 39-41; Mt 4,17).

    Như thế, cõi lòng được coi là khả năng nhận thức những giá trị luân lý và cũng là khả năng tự quyết định của cá nhân trong tương quan với điều tốt hay điều xấu, tùy theo mối liên hệ của những điều này với Chúa. Cho nên cõi lòng giữ vai trò chủ yếu trong việc thiết lập mối liên hệ giữa Thiên Chúa với con người. Cõi lòng là nơi gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa. Trong mối liên hệ nền tảng này, cõi lòng trở thành nhân chứng hay vị quan tòa đối với những giá trị luân lý của hành vi nhân linh. Chính cõi lòng khiển trách (x. Mc 6, 16, câu chuyện Hê-rô-đê chém đầu Gio-an Tẩy Giả), gợi lên sự hối hận (x. Mc 14, 66-72 câu chuyện Phê-rô chối Chúa). Đó là kinh nghiệm tôn giáo, kinh nghiệm về lương tâm.

    Theo Tự điển bách khoa Kinh Thánh, từ “cõi lòng” được dùng trong Tân Ước cả thảy 30 lần, trong đó đến 25 lần được dùng bởi Phao-lô. Với tư cách là tông đồ, Phao-lô đã đem lối nhìn của Cựu Ước, kinh nghiệm về việc Chúa kêu gọi và đổi mới cõi lòng ông vào trong sứ vụ rao giảng của mình. Dường như, sự nhạy cảm của Phao-lô liên quan đến lương tâm người khác phát xuất từ lương tâm tinh tế của chính ông (x. 2Cr 1, 12), từ sự nhận thức liên tục về lòng thương xót của Chúa đối với chính bản thân ông” (x. 2Cr 5, 11).

    Sau đó Phao-lô đã chuyển sứ điệp này cho dân ngoại bằng chính ngôn ngữ của họ khi dựa trên kinh nghiệm của họ về lương tâm và lòng mộ đạo; nhưng cùng một lúc ông cố gắng đưa tất cả những thứ đó vào dưới ánh sáng của Đức Kitô. Ông không chỉ chấp nhận “những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh đáng khen” (Pl 4, 8), mà còn sử dụng cả khái niệm chủ yếu của nền đạo đức phái Khắc kỷ, đó là Syneidesis. Qua đó Phao-lô nhắm tìm ra những gì là tích cực và có thể chấp nhận được trong khái niệm Hy Lạp về Syneidesis, nhưng đồng thời những gì ông nghĩ, rao giảng và viết lách đều đã bắt nguồn sâu xa từ truyền thống Kinh Thánh. Vì thế ông có khả năng đem sứ điệp của Chúa đến với ngôn ngữ của người nghe đương thời. Theo vài tác giả, ngay cả khi vay mượn những tiếng từ ngôn ngữ triết học thời của mình, sau đó Phao-lô cũng đã củng cố những từ ngữ đó bằng truyền thống trong Thánh Kinh về vai trò của cõi lòng.

    Ngoài chức năng đánh giá phẩm chất hành vi cá nhân của mình, cõi lòng còn có khả năng đánh giá hành vi của người khác (x. 1Cr 10, 28-29; 2Cr 4,2; 5,11). Đồng thời thánh Phao-lô khuyên khi hành động ta phải lưu ý đến việc hành vi của ta dù đúng vẫn có thể gây vấp phạm cho những người khác có cõi lòng yếu đuối, không hiểu rõ vấn đề (x. 1Cr 8, 7; 10, 12). Rồi Phao-lô còn nói đến cõi lòng như quy luật của cuộc sống, nên có một cõi lòng ngay chính đủ để hành động an toàn về mặt luân lý (Rm 13, 5 và 1Cr 10, 25.27). Với những trường hợp điển hình nêu trên, lương tâm được coi như ánh sáng soi dẫn, chứng nhân, nhà lập luật, quan tòa.

    Còn trong các thư mục vụ, Phao-lô cho rằng cõi lòng tốt, trong sạch làm cho cuộc sống người Kitô hữu hài hòa với đức tin của mình. Như thế cõi lòng trở thành yếu tố cần thiết cho đời sống luân lý thánh thiện để phục vụ Chúa (x 1Tm 1,5.19; 2Tm 1,3.5). Ngoài ra trong khi sử dụng khái niệm Syneidesis, Phao-lô còn muốn truyền đạt sứ điệp của các ngôn sứ về cõi lòng con người, nơi đó Thiên Chúa làm cho con người biết luật yêu thương của Người. Sứ điệp cốt lõi của Phao-lô là Thánh Thần đổi mới cõi lòng người ta, chỗ nào có sám hối và hoán cải chỗ đó có sự tái sinh cõi lòng. Rõ ràng ở đây Phao-lô muốn chỉ điều ta nói về lương tâm.

    Phao-lô còn đề cập đến sự rạn nứt nơi sâu thẳm con người ta khi mình nói biết Thiên Chúa mà lại chống lại ân sủng Chúa và lời mời gọi của đức tin: “Với những kẻ nhiễm uế và không có đức tin, thì không có gì là trong sạch cả; trái lại trí khôn và lương tâm của họ đã bị nhiễm uế. Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa nhưng trong hành động họ lại chối Người. Họ là đồ ghê tởm, không vâng lời và không có khả năng làm một việc gì tốt” (Tt 1,15-16). Ơn cứu độ không chỉ giải thoát ta khỏi tâm trí và suy luận dối trá, nhưng còn chạm đến nơi sâu thẳm hơn đó là cõi lòng, mà nay chúng ta hiểu là lương tâm con người.

    2. Các lập trường thần học về lương tâm như một khả năng thiêng liêng[5]

    Lương tâm còn đi xa hơn sự nhận thức thực hành về các giá trị, vì nó còn xuất hiện như khả năng của tâm hồn đảm bảo cho những đòi hỏi của bổn phận. Lương tâm là tiếng vang trong nội tâm cho ta biết sự cứu độ hay hư mất của mình, chúng liên kết với việc ta có lập trường theo điều thiện hay theo điều ác.

    Thánh Augustinô đã giải thích một cách sâu sắc lương tâm như một khả năng. Lấy lại ý tưởng của trường phái Khắc kỷ coi lương tâm như là sự tham dự vào Lex aeterna. Sau đó vị Thánh chủ trương sự thánh thiện của Thiên Chúa làm cho con người được tham dự vào lề luật của Thiên Chúa. Ánh sáng thần linh xâm nhập vào tận nơi sâu kín nhất trong cõi lòng con người và cõi lòng lại không ngừng thúc đẩy ta hướng về Chúa. Con người được dựng nên để yêu mến Thiên Chúa và sự thiện. Đây đích thực mới là bản chất sâu xa của con người.

    Thần học kinh viện phân biệt rõ ràng giữa lương tâm như một khả năng thường xuyên với lương tâm như một hành vi trong mỗi lần xét xử. Lương tâm như một khả năng: Khả năng này được hiểu như một cố gắng thiết yếu của con người để bảo toàn chính bản thân khi hành động theo bản tính của mình, và hoàn lại cho Thiên Chúa những bổn phận do bản tính con người đòi hỏi. Như vậy, lương tâm là một khả năng nằm trong nơi sâu thẳm và tâm điểm của con người. Nó ý thức được ơn gọi riêng của mình trong kế hoạch của Thiên Chúa và cảm nghiệm được sự đòi hỏi của ơn gọi ấy. Ngoài ra nó còn thôi thúc con người về mặt tâm linh và tình cảm hãy chu toàn các đòi hỏi xuất phát từ ơn gọi ấy. Tất cả các điều ấy cho thấy tự bản chất lương tâm mang một chiều kích tôn giáo. Đây là nơi con người được kêu gọi lãnh trách nhiệm trước mặt Chúa. Cho nên ta hiểu được lý do tại sao khi bất phục tùng tiếng gọi của lương tâm sẽ làm ta cảm thấy có tội. Theo quan niệm trên, ta có thể nói lương tâm có khả năng giúp con người biết các nghĩa vụ luân lý của mình và thúc đẩy con người chu toàn các nghĩa vụ đó.

    Theo Richard Gula, trong quá khứ các tác giả cố gắng giới hạn lương tâm vào chức năng của ý chí hoặc lý trí, còn ngày nay ta hiểu lương tâm như sự diễn đạt toàn thể con người. Nói cách đơn giản lương tâm là “chính tôi đi đến quyết định”. Điều này không những bao hàm những khía cạnh nhận thức và ý chí, nhưng còn cả những khía cạnh cảm tính, trực giác, thái độ và thể xác nữa. Sau cùng lương tâm là sự dấn thân toàn thể con người tới các giá trị. Người ta phải có những phán đoán dưới ánh sáng sự dấn thân áp dụng các giá trị này.

    Với ý nghĩa toàn diện của lương tâm ta có thể lượng giá ba chiều kích của lương tâm theo truyền thống Giáo hội: 1/Synderesis, khuynh hướng nền tảng hay khả năng trong ta biết điều tốt và làm điều tốt. 2/ Kiến thức luân lý (moral science) là tiến trình khám phá những điều tốt phải làm và những điều xấu phải tránh. 3/ Sự phán đoán rành mạch về điều tốt “tôi phải làm” trong tình huống cá biệt. Đây không phải là ba thực tại cách biệt, cũng không phải là ba giai đoạn phân biệt qua đó lương tâm đi từ trạng thái chưa trưởng thành đến trạng thái trưởng thành, nhưng chỉ là ba ý nghĩa hay ba chiều kích, trong đó ta có thể hiểu một thực tại duy nhất của lương tâm mà thôi.

    Chiều kích 1: Lương tâm như một khả năng (Synderesis)

    Đây là khả năng biết và làm những điều tốt và tránh những điều xấu.

    Hướng chiều về điều tốt có thể cho thấy sự khác biệt sống động giữa điều gì là đúng, với điều gì là sai trong mỗi chọn lựa luân lý. Việc kinh nghiệm những khác biệt luân lý trong cuộc sống khẳng định chính sự hiện diện của lương tâm. Vì có synderesis, nên ta chia sẻ ý thức chung về giá trị luân lý và cảm thức này tạo nên một sự khác biệt giữa việc làm một điều đúng và tránh một điều sai. Ta không thể sống một cách luân lý nếu không có chiều kích 1 này của lương tâm, nhưng tự nó chiều kích 1 này chưa đủ để làm cho ta có khả năng lựa chọn điều đúng trong mỗi trường hợp đặc thù.

    Chiều kích 2: Lương tâm như một kiến thức luân lý (moral science)

    Sức mạnh của khả năng phân biệt tốt xấu làm cho ta có khả năng tìm thấy những giá trị luân lý khách quan trong mỗi tình huống riêng biệt, để khám phá những điều đúng phải làm. Còn việc khám phá ra những giá trị luân lý thực tiễn (operative) lại là công việc của chiều kích thứ 2 này của lương tâm.

    Công việc chủ yếu của nó là sự nhận thức xác đáng và lý luận đúng về mặt luân lý. Vì lẽ đó, người ta lưu tâm rất nhiều đến kiến thức hiểu biết về luân lý trong vấn đề giáo dục lương tâm hay trong những tranh luận về luân lý. Kiến thức hiểu biết về luân lý có thể đưa đến sự sáng suốt hay mù quáng, bất đồng hay lầm lạc mang tính chất luân lý.

    Cho nên lương tâm cần phải được giáo dục, đào tạo, hướng dẫn, kiểm tra và biến đổi. Kiến thức, hiểu biết luân lý trở thành mục tiêu của tiến trình đào tạo lương tâm, giúp ta nhìn đúng và nghĩ đúng. Chịu trách nhiệm trước sự thật luân lý, lương tâm được soi sáng và trợ giúp bằng nhiều cách để nhận ra và có được sự thật này. Điều đó có nghĩa sự hiểu biết, kiến thức luân lý được đào tạo trong một cộng đoàn và nhờ từ nhiều nguồn khôn ngoan về luân lý để biết mình có thực sự ở trong sự thật luân lý hay không. Lương tâm không tự trị. Cho nên hoạt động của nguồn kiến thức hiểu biết luân lý giống như một tiến trình.

    Chiều kích 3: Lương tâm như một phán đoán

    Đây là một chiều kích khác của lương tâm hiểu theo nghĩa hẹp của từ ngữ, nó đưa ta đi từ nhận thức, lý luận đến hành động. Ở đây hướng chiều tổng quát về điều tốt và tiến trình xem xét những nhân tố xác đáng đều hội tụ lại để đưa ra phán quyết về điều hiện giờ tôi phải làm và dẫn tôi đến sự dấn thân làm điều đó. Để đi đến sự phán đoán này, nhiều người có thể giúp tôi; nhưng không ai có thể thay tôi phán đoán, vì đây là điều chỉ mình tôi có thể làm được mà thôi. Đặc điểm của phán đoán trong lương tâm là đây luôn là một phán đoán cho cá nhân tôi. Nó không bao giờ là một phán đoán về một điều gì mà một người nào đó phải làm, nhưng chỉ phán đoán về điều tôi phải làm mà thôi.

    Tinh hoa của phẩm giá là tự do của lương tâm đều nằm trong chiều kích thứ ba này của lương tâm: tôi luôn phải làm điều tôi cho là đúng và tránh điều tôi cho là sai. Nếu người ta thực sự tin vào lương tâm của mình cho rằng hành động này hơn hành động khác, nó là lời mời gọi khách quan của Chúa. Nên hành động này không còn đơn thuần là một sự lựa chọn giữa nhiều sự lựa chọn khác, thì về mặt luân lý, hành động này là hành động mà người ta cần phải có. Đó chính là điều mà mệnh lệnh “buộc phải theo lương tâm mình” muốn nói. Cho nên người ta không thể xâm phạm chiều kích thứ 3 này của lương tâm. Và đây cũng chính là điều Công Đồng Vatican II gọi là “tâm điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người” (GS s. 16) ở đó, con người hiện diện một mình với Thiên Chúa.

    Dưới ánh sáng hiểu biết về lương tâm như trên, ta có thể đánh giá sự thật về câu thành ngữ: “Hãy để lương tâm bạn hướng dẫn”. Nếu theo câu thành ngữ này mà không biết phê phán gì cả, không nắm bắt kiến thức luân lý, tức là ta đã “tiêm” vào bản chất của lương tâm một “liều độc dược” cá nhân chủ nghĩa, tự do lệch lạc và cắt đứt chiều kích thứ 3 của lương tâm ra khỏi việc nó cần được hướng dẫn bởi những nguồn khôn ngoan luân lý khác.

    “Hãy để lương tâm bạn hướng dẫn” phải được giải thích theo chiều kích thứ 3 này của lương tâm. Khi chiều kích thứ 1 và thứ 2 của lương tâm làm tốt công việc chuẩn bị, đến lúc chiều kích thứ 3 của lương tâm thực hiện vai trò. Sự phán đoán trong mỗi trường hợp sẽ đáng tin cậy tương xứng với công việc chuẩn bị kỹ lưỡng mà người ấy đã làm trong việc đào tạo lương tâm mình. Cuối cùng chiều kích thứ 3 của lương tâm sẽ chỉ là người hướng dẫn chắc chắn cho hành động đối với người hiểu biết và tự do đích thực. Nên khi xâm phạm đến chiều kích thứ 3 này của lương tâm là xúc phạm đến sự trung thực của con người. Và chúng ta cũng thấy rõ hơn, để chiều kích thứ 3 này của lương tâm có được sức mạnh của nó, đòi hỏi hai chiều kích kia của lương tâm phải được chuẩn bị đầy đủ.

    Có các hiểu biết trên, chúng ta sẵn sàng để hiểu về lương tâm theo giáo huấn chính thức của Huấn quyền:

    Con người khám phá ra tận đáy lòng một tiếng nói kêu gọi con người phải làm lành lánh dữ. Con người không đặt ra cho mình tiếng nói này, mà vẫn phải tuân theo. Tiếng nói ấy vang lên đúng lúc trong thâm tâm của chính con người: làm điều này, tránh điều kia. Đó chính là lương tâm, là lề luật được Chúa khắc ghi trong tâm khảm mỗi người. Vâng theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người và chính con người cũng sẽ bị xét xử theo lề luật ấy (Rm 2, 14-16).

    Lương tâm là cõi lòng sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây chỉ một mình con người hiện diện với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong đáy lòng người ấy. Nhờ lương tâm, lề luật được thực hiện trong sự yêu mến Thiên Chúa và anh em và được biểu lộ cách kỳ diệu (Mt 22, 37-40 và Ga 7,14). (GLHTCG s. 1776, trích Gaudium et spesGS s. 16).

    Khả năng, kiến thức hiểu biết, và khả năng phán đoán của lương tâm được xây dựng dần dần trong tiến trình tăng trưởng của mỗi người, chịu ảnh hưởng của cả các tác động bên ngoài của môi trường, vì thế lương tâm có thể lầm lạc. Thói quen phạm tội làm cho lương tâm dần trở nên mù quáng (MV16). Do đó, cần huấn luyện lương tâm.

    3. Huấn luyện lương tâm

    “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).

    Phán quyết của lương tâm về tính đúng sai, tốt xấu của một hành vi định làm không chỉ là một phán quyết về giá trị của chính hành vi, nhưng còn là một phán quyết về người thực hiện hành vi. Lựa chọn hành động của người ấy cũng chính là chọn lựa tính cách luân lý của người đó. Những hành vi của ta góp phần làm nên con người của ta, nói cho ta biết ta là ai. Chọn làm điều tốt là chọn trở nên một con người tốt; chọn làm điều xấu tức là chọn trở thành một con người xấu. Phán quyết của lương tâm là một phán quyết mang tính quyết định.

    Một mặt, “Con người luôn luôn phải tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán ấy, con người tự kết án chính mình” (GLHTCGs.1790). Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhận ra điều này là phán quyết của con người có khả năng sai lầm. Thậm chí, khi một người đưa ra phán quyết chắc chắn là mình đúng, thì có thể người ấy vẫn chưa hiểu đúng vấn đề, chưa đủ kiến thức cần có, hoặc chưa ý thức đủ về tất cả các sự kiện. Trong những trường hợp này, về mặt chủ quan, người đưa ra phán quyết đang hành động với một đức tin tốt lành và không bị kết tội, thế nhưng về mặt khách quan, người ấy vẫn sai lầm và sự dữ trong hành động ấy vẫn diễn ra.

    Người ta cũng có thể trở nên đáng trách do thiếu sự phán quyết đúng đắn hay vì sự thiếu hiểu biết của chính mình. “Điều này xảy đến khi: ‘Con người không mấy lo lắng tìm kiếm chân lý và điều thiện, cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm dần dần trở nên mù quáng’. Trong các trường hợp đó, con người phải chịu trách nhiệm về điều xấu đã làm” (GLHTCGs.1791, trích dẫn GS, 16). Các nguồn gốc sai lầm trong luân lý có thể khác nhau: “Xuất phát từ thiếu hiểu biết về Đức Kitô và Tin Mừng; gương xấu của người khác; nô lệ các đam mê; nghĩ sai lạc về tự do lương tâm; khước từ quyền bính và giáo huấn của Hội Thánh; thiếu hoán cải và bác ái” (GLHTCGs.1792).

    Trong tất cả trường hợp – dù sự thiếu hiểu biết đó đáng trách hay không – người ta luôn có bổn phận phải làm tất cả những gì cần để hiểu biết đầy đủ hơn, để có thể đưa ra phán đoán đúng đắn, từ đó có thể sống đúng đắn. Sự thiếu hiểu biết như thế luôn luôn có hại.

    Có vài quy tắc “vàng” giúp giáo dục lương tâm, như được phác thảo trong sách GLHTCG: 1/ Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt một kết quả tốt (mục đích không biện minh cho phương tiện); 2/ Tất cả những gì mình muốn người ta làm cho mình thì chính mình hãy làm cho người ta; những gì mình không muốn người ta làm cho mình thì mình đừng làm cho người ta; 3/ Đức ái Kitô giáo luôn luôn đòi chúng ta tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ (GLHTCGs.1789).

    Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện lương tâm. Chúng ta phải đón nhận Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện và đem ra thực hành; phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thánh Giá Ðức Kitô; nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, có các chứng từ và lời khuyên nhủ của các thánh, hiền nhân, được giáo huấn của Huấn quyền hướng dẫn (GLHTCG s.1785).

    Để lương tâm được đào luyện đúng cách, cần phải nỗ lực để nên chính trực và thật thà. Có nghĩa là cố gắng sao cho những phán đoán của lương tâm được hình thành dựa trên nền tảng là những suy tư tốt đẹp và biết chấp nhận những sự thiện, chân lý mà Thiên Chúa đã mạc khải. Mang thân phận con người, chúng ta thường dễ bị ảnh hưởng bởi các thế lực tiêu cực, bị cám dỗ phạm tội như tổ tông xưa. Chúng ta dễ bị lôi cuốn vào một thứ tự trị sai lầm cũng như sự cám dỗ chối bỏ cả những giáo huấn đúng đắn có thẩm quyền hợp pháp[6].

    “Đào luyện lương tâm là nhiệm vụ phải theo đuổi suốt đời. Ngay từ thời thơ ấu, trẻ con phải được hướng dẫn để nhận biết và thực hành luật nội tâm đã được lương tâm công nhận. Một nền giáo dục tốt dạy con người sống đức hạnh, bảo vệ và giải thoát con người khỏi sợ hãi, ích kỷ và kiêu căng, những mặc cảm tội lỗi và thái độ tự mãn, những thứ phát xuất từ sự yếu đuối và dễ sai lầm của con người. Đào luyện lương tâm bảo đảm tự do và tạo bình an trong tâm hồn.” (GLHTCGs.1784)

     

    Bài viết liên quan